BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM...

28
NGUYN THHẢ ỢNG BÓNG RI VÀ CHẶ ỊA NÀNG NG TH MU CA I VIT NAM B huyên ngành: HÓA Mã s: 62.31.70.01 L S HÓA HC 2013

Transcript of BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM...

Page 1: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

NGUYỄN THỊ HẢ ỢNG

BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG

ỠNG TH MẪU CỦA

I VIỆT NAM B

huyên ngành: HÓA

Mã số: 62.31.70.01

O Ă L Â A Ê SI HÓA H C

– 2013

Page 2: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

ông trình được hoàn thành tại:

RƯỜ G ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘ V Â VĂ

ĐẠI HỌC QU C GIA THÀNH PH H CHÍ MINH

Cán bộ hướng dẫn khoa họ G Thế Bảo

gười phả 1:

gười phả 2:

gười phả 3:

Luận án sẽ được bảo v t ước Hộ đồ g đ h g luận án tiế sĩ ấp

ơ sở đào tạo, tại ườ g Đạ họ ho họ hộ à h – Đ QG-

HCM, số 10-12 đườ g Đ h ê oà g, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh,

gày ……th g…… m 2013

Page 3: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

NHỮNG CÔNG B KHOA H C CỦA TÁC GIẢ

L Ê ÊN N I DUNG LUÂN ÁN

1. “Tính linh hoạt trong ngh thuật Bóng rỗ ”, Thông báo khoa học,

(Vi V ó gh Thuật Vi t Nam), 01, 2010, tr. 67-72.

2. “ hặp Đị à g t o g hó gười Vi t ở Nam Bộ”, Thông báo khoa

học, (Vi V ó gh Thuật Vi t Nam), số 02, 2010, tr. 34-48.

3. “Âm hạ tí gưỡ g gười Vi t Nam Bộ từ gó hì hó họ ”,

Tạp chí khoa học, (t ườ g Đại Học Trà Vinh), số 03, 2011, tr. 48-51.

4. “Vấ đề bảo tồn và phát triển nhạc lễ trong lễ tế th n, cúng Bà Chúa

Xứ”, hội thảo khoa học: Hoạt động quản lý, tổ chức lễ hội cổ truyền ở

các tỉnh phía Nam-nghiên cứu lễ hội bà Chúa Xứ núi Sam,UBND tỉnh

An Giang-Bộ Văn hóa-thể thao và du lịch, 2012, tr.375-383.

5. “Đặ đ ểm ngh thuật của bóng rỗi Nam Bộ”, Nguồn sáng dân gian

(Hộ V gh Dân gian Vi t m), 03(44) th g 7+8+9 m 2012,

tr.9-tr.16.

6. “ ome ote o the tu l mus of the ult of the oly othe outh

Vi t m”, Vietnamese studies, No 3 (185) 2012, tr.96-100.

7. “ í h l h hoạt củ gười Vi t Nam Bộ trong âm nhạc bóng rỗ ”, Tạp

chí Văn Hóa Nghệ Thuật (Bộ VHTT&DL), số 341-tháng 11-2012,

tr.78-81.

Page 4: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết
Page 5: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Như chúng ta đã biết, thế giới đang trải qua quá trình toàn cầu hóa một

cách mạnh mẽ, vì thế sự cần thiết xây dựng và phát triển một nền văn hóa đậm

đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Việc

nhận diện để bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc của từng vùng miền sẽ góp

phần khẳng định bản sắc dân tộc Việt Nam trong kho tàng văn hóa thế giới.

Thực tế cho thấy, trong nhiều năm trước đây chúng ta đã có những

nhận định chưa chính xác về tôn giáo tín ngưỡng nói chung, do đó đã đánh

đồng chúng với các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan cần phải dẹp bỏ. Ngày nay,

với sự nhìn nhận một cách đúng đắn và khoa học hơn về tín ngưỡng, thì các lễ

hội dân gian đã phát triển rất mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh sự phục hồi các hoạt

động văn hóa, khơi lại các giá trị văn hóa cổ truyền thì sự phát triển một cách ồ

ạt, tự phát cũng bộc lộ những khuyết điểm về nhận thức và ứng xử của xã hội,

cũng như làm thay đổi một số giá trị nghệ thuật.

Lễ hội thờ Mẫu (thờ Bà) của người Nam Bộ là sự tích hợp nhiều thành

tố từ trong đời sống văn hóa của cư dân. Bên cạnh những yếu tố mang tính tôn

giáo, tín ngưỡng, chúng ta thấy có nhiều thành tố có thể coi là những hoạt

động văn hóa nằm trong loại hình diễn xướng dân gian, mang những giá trị

văn hóa-nghệ thuật đặc trưng của người Việt Nam Bộ, mà Bóng rỗi và chặp

Địa nàng là những nghi thức tiêu biểu.

Một số công trình đã nghiên cứu về Bóng rỗi và chặp Địa nàng. Đó là

những nghiên cứu có giá trị và đóng góp không nhỏ cho việc tìm hiểu nghi

thức diễn xướng đặc trưng trong lễ thờ Mẫu Nam Bộ. Tuy nhiên, những công

trình này phần lớn nghiêng về việc khảo tả, phân tích trình thức; hoặc xem xét

hai nghi thức này dưới góc độ Tôn giáo học.

Do vậy, việc nghiên cứu hai nghi thức này dưới góc độ văn hóa học

thực sự trở nên cần thiết cho việc nhìn nhận lại các giá trị để làm cơ sở trong

việc đánh giá và định hướng cho các hoạt động diễn xướng tín ngưỡng nói

chung. Nếu xem xét chúng với tư cách là các hoạt động văn hóa trong đời

sống tâm linh, thì qua nội dung và hình thức thể hiện, chúng đã làm nổi bật

những quan niệm nhân sinh, quan niệm về thẩm mỹ của người dân Việt Nam

Bộ. Đồng thời, thông qua những nhận thức và ứng xử với môi trường tự nhiên

và xã hội được biểu hiện qua hình thức văn hóa nghi lễ mà những đặc trưng

tính cách tạo thành bản sắc văn hóa của con người vùng đất phương Nam đã

được khắc họa một cách rõ nét.

Page 6: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

2

Với mong muốn góp một phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu kho tàng văn

hóa dân gian Nam Bộ, chúng tôi quyết định chọn đề tài Bóng rỗi và chặp Địa

nàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam Bộ làm đề tài nghiên cứu.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu về đạo Mẫu và các nghi

thức trong tín ngưỡng thờ Mẫu khá phong phú và có tầm bao quát rộng. Tuy

nhiên, chưa có công trình nào xem xét một cách chi tiết các khía cạnh chính

yếu của hai nghi thức Bóng rỗi và chặp Địa nàng. Mặc dù vậy, có thể dẫn ra

những công trình và các bài viết tiêu biểu bước đầu đề cập, khơi gợi đến vấn

đề này.

2.1. Đề cập đến các lễ hội thờ nữ thần, Mẫu thần

Có thể kể đến một số công trình như Nguyễn Văn hâu, n t ong

nh ng a n Vũ Ngọc Khánh-Phạm Đình Thảo, Kho tàng

di n ớng dân gian Việt Nam Cadière, L., Croyances et pratiques religieuses

des Vietnamiens; Đinh Văn Hạnh-Phan An, hội dân gian ủa ng dân

Rịa-Vũng u (phần Lễ hội Thờ Mẫu/Nữ thần); Tôn Thất Bình, Hu hội dân

gian; Toan Ánh, Hội hè đ nh đ m Việt Nam;Nguyễn Hữu Thông, ín ng ỡng

thờ mẫu miền ung Việt Nam; Huỳnh Quốc Thắng, hội dân gian Nam

ộ,v.v… ác công trình nghiên cứu này chủ yếu khảo tả về nguồn gốc của các

lễ hội, sự tích các vị thần được thờ cúng, trình bày chi tiết về quy trình, nghi

thức lễ hội.Tạ hí Đại Trường, hần, ng ời v đất Việt trình bày sự hình

thành và biến chuyển của các hệ thống thần linh của người Việt từ cổ đại tới

cận đại, từ hệ thống các nhiên thần (các thần cây, đá, các thần sông nước) đến

các nhân thần sơ khai. Tiếp đó là các hệ thống thần mới, nảy sinh do tiến trình

hình thành thể chế quân chủ tập quyền, đồng thời do sự giao lưu với tín

ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc phương Bắc và phương Nam trong tiến

trình lịch sử của cộng đồng Việt.

2.2. Các công trình lý luận nghiên cứu về đạo Mẫu.

Đáng lưu ý trong những công trình đó là

Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc húc, C nữ thần Việt Nam Vũ Ngọc

Khánh, ạo h nh Việt Nam; Ngô Đức Thịnh, ạo Mẫu Việt Nam: trong

công trình này, nhà nghiên cứu đã có công sưu tầm, nghiên cứu và phân tích

một cách sâu sắc, chi tiết đạo Mẫu ở Việt Nam. Hoàn thiện, hệ thống hóa và

đưa ra các lý giải về các vị nữ thần, Mẫu thần hiện diện trong tâm thức người

Việt. Nguyễn Hữu Hiếu, ừ nữ thần In N ga đ n Chúa Xứ, phân tích về

sự biến chuyển từ nữ thần người hăm đến thần nữ của người Việt. Nguyễn

Minh San, Những thần nữ danh ti ng t ong văn ho Việt Nam đề cập đến

huyền tích của 17 vị nữ thần, mẫu thần, có 3 vị được thờ ở miền Nam là Bà

Page 7: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

3

húa Ngọc, Bà húa Xứ, Bà Đen; Ngô Bạch, Nghi thờ Mẫu-văn hóa v tập

tụ , giới thiệu các vị Thánh Mẫu, phân tích về bản chất và đặc trưng của tín

ngưỡng thờ Mẫu. Phan Thị Thu Hiền, uyền thuy t Man n ơng ủa Việt Nam

và vu ca Tanggeum A gi ủa o a. Nghiên cứu so sánh hai tác phẩm nổi

tiếng trong văn học dân gian của Việt Nam và Korea, giải mã hình tượng một

trong những vị thần quan trọng trong tâm thức người dân Việt.

Số công trình nêu trên đã đi sâu phân tích hình tượng các nữ thần, Mẫu

thần Việt Nam dưới góc độ tôn giáo, chủ yếu là các vị nữ thần ở miền Bắc.

ác tác giả sưu tầm, tìm hiểu và giới thiệu huyền tích của các vị nữ thần. Tên

gọi, các chức danh mà thần đã được sắc phong hay chỉ là các danh hiệu do

nhân dân kính trọng mà gọi thành.

2.3. Đề cập sâu hơn về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam Bộ có

một số công trình phổ biến

ín ng ỡng dân gian th nh phố Hồ Chí Minh do Huỳnh Ngọc Trảng-

Trương Ngọc Tường-Hồ Tường nghiên cứu; Sơn Nam, nh mi u v hội

dân gian miền Nam; Huỳnh Văn Tới, ụ thờ nữ thần ồng Nai; Đỗ Văn

Rỡ, Nghi thứ hội t uyền thống Việt Nam Lê Hải Đăng, hội úng mi u

v tụ thờ nữ thần th nh phố Hồ Chí Minh Trần Hồng Liên,Giá trị tinh thần

truyền thống t ong tín ng ỡng thờ Mẫu Nam Bộ v.v... ác chuyên khảo này đã đưa ra cái nhìn toàn diện về hệ thống các vị nữ thần được nhân dân Nam Bộ

thờ phượng, giúp người đọc có thể nhận ra những nét đặc trưng tiêu biểu của

tục thờ Mẫu ở Nam Bộ.

2.4. Liên quan mật thiết đến đề tài mà chúng tôi đang quan tâm, có thể kể

đến một số chuyên luận nghiên cứu sau

Huỳnh Ngọc Trảng, ịa N ng, hặp bóng tuồng h i Nam ộ; Huỳnh

Thao, Chặp ịa-N ng, h t óng i ồng Nai Huỳnh Ngọc Trảng, Di n

ớng dân gian Gia ịnh-Sài Gòn; Nguyễn Hữu Hiếu, Văn hóa dân gian v ng

ồng h p M ời; các tham luận trong hội thảo Múa bóng i, một nghệ thuật

di n ớng dân gian Nam ộ; Mai Mỹ Duyên, ụ thờ v nghệ thuật múa

óng i… ác nghiên cứu này chủ yếu đi sâu vào việc khảo tả trình thức biểu

diễn, ghi chép lại kịch bản của chặp Địa nàng, Bóng rỗi và giải nghĩa câu chữ

trong kịch bản.Tuy nhiên, các tác giả chưa hệ thống và chưa đi sâu vào chi tiết

của hai nghi thức này.

2.5. Một số nghiên cứu đề cập đến những nghi thức diễn xướng có đôi nét

tương đồng với Bóng rỗi như

Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Những đại v vũ khú ủa vua húa Việt

Nam, mô tả về những nghi thức múa hát, diễn xướng trong lễ Tứ tuần Đại

khánh vua Khải Định, trong đó có những thông tin chi tiết đề cập đến một số

Page 8: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

4

vấn đề liên quan đến cách múa hát của các vũ nữ người hăm; H t Chầu văn

của Bùi Đình Thảo-Nguyễn Quang Hải, khảo tả về nghi thức, giai điệu, tiết tấu

âm nhạc và nội dung lời hát; Ngô Đức Thịnh (chủ biên), ạo Mẫu v h nh

thứ Shaman t ong tộ ng ời Việt Nam v hâu Á Ngô Đức Thịnh, Lên

ồng - H nh t nh ủa thần inh v thân phận: công trình nghiên cứu về nghi

thức Lên Đồng miền Bắc và nêu lên những nhận định về vai trò, vị trí của nghi

thức diễn xướng này trong đời sống tâm linh của người Việt sống chủ yếu ở

vùng Bắc Bộ. Norton Barley cũng đã nghiên cứu một cách sâu sắc về các nghi

lễ và âm nhạc trong các giá đồng qua tác phẩm Vietnamese mediumship

rituals: the musical construction of the spirits; Nguyễn Thanh Hiền, h n ắ

ầu in hoa; Nguyễn Thị Yên, Then Tày; Ngô Văn Doanh, Văn hóa ổ

Chămpa, tác giả đề cập sơ lược đến âm nhạc và múa của người hăm trong

các cuộc tế lễ chung và riêng.

Xuất phát từ mong muốn được góp sức mình vào việc tìm hiểu một

cách sâu sắc những vốn quý mà cha ông để lại, trong luận án này, chúng tôi cố

gắng tìm hiểu từ góc nhìn văn hóa học về hai trong những thành tố làm nên

diện mạo của lễ hội thờ Mẫu ở miền Nam, đó là nghi thức diễn xướng Bóng

rỗi và chặp Địa nàng. Tìm nguyên nhân hình thành, đặc điểm văn hóa-nghệ

thuật của loại diễn xướng văn hóa dân gian này. Trên cơ sở đó, chúng tôi mạnh

dạn đề xuất các giải pháp khả thi cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị hữu

ích của thể loại này trong đời sống xã hội đương đại.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu hai nghi thức diễn xướng trong tín ngưỡng thờ Mẫu

của người Việt ở Nam Bộ Bóng rỗi và chặp Địa nàng.

Luận án mong muốn giải quyết những vấn đề sau

- Nghiên cứu, khảo sát và lý giải một cách tổng thể, có hệ thống quá

trình hình thành và phát triển của Bóng rỗi và chặp Địa nàng.

- Nêu bật những đặc điểm riêng biệt của Bóng rỗi và chặp Địa nàng so

với một số nghi thức diễn xướng khác trong tín ngưỡng thờ Mẫu để thể hiện

tính chất độc đáo của hai nghi thức diễn xướng này.

- Từ những nghiên cứu trên, luận án góp phần xác định những giá trị

đặc trưng làm nên bản sắc của nghi lễ thờ Mẫu Nam Bộ, trên bình diện rộng

hơn là giá trị bản sắc văn hóa tâm linh Nam Bộ.

- Trên cơ sở những phân tích, lý giải, luận án góp phần đánh giá, hình

thành một cách tiếp cận khoa học, xác đáng đối với loại hình diễn xướng tâm

linh này trong đời sống văn hóa tinh thần của người Nam Bộ, nhằm bảo tồn và

phát huy di sản truyền thống trong kho tàng văn hóa Nam Bộ nói riêng, Việt

Nam nói chung.

Page 9: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

5

4. GIỚI HẠN PHẠM VI ĐỀ TÀI

Luận án đi sâu nghiên cứu hai nghi thức Bóng rỗi và chặp Địa nàng trong

tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam Bộ. Do vậy chúng tôi tìm hiểu hai

nghi thức này trong những buổi lễ cúng tại các miếu thờ Mẫu vùng Nam

Bộ.Việc khảo sát điền dã sẽ chủ yếu ở các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ, với tộc

người Việt (người Kinh). Ngoài ra, chúng tôi còn mở rộng so sánh với một số

nghi lễ liên quan như Hầu đồng, các lễ hội hăm ở Nha Trang, Ninh Thuận.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU

Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu (Bóng rỗi và chặp Địa

nàng) và xuất phát từ mục đích của luận án, chúng tôi sử dụng những phương

pháp sau trong quá trình xử lý đề tài phương pháp chức năng luận

(functionism) là lý thuyết phương pháp luận chủ đạo trong luận án.

Ngoài ra, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành Dân tộc

học, Nhân học văn hóa, Xã hội học, Nghệ thuật học, các tư liệu vang

(DVD,V V, D), các tài liệu khoa học đã được công bố v.v..

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Luận án đã bước đầu tìm hiểu và xác định nguồn gốc hình thành của

Bóng rỗi và chặp Địa nàng. húng được tạo thành từ trong nền văn hóa dân

gian của cư dân Nam Bộ và phục vụ cho nhu cầu văn hóa tâm linh người Nam

Bộ.

- Xem xét các khía cạnh chính yếu để thấy những yếu tố có nguồn gốc

từ lịch sử, văn hóa, xã hội… đã tích hợp và tạo nên nghi thức Bóng rỗi và chặp

Địa nàng. Tuy vậy, các nghi thức diễn xướng này vẫn thể hiện được tính chất

đặc biệt của vùng đất Nam Bộ.

- hứng minh những đặc điểm riêng biệt của Bóng rỗi và chặp Địa

nàng trong đối sánh với một số nghi thức diễn xướng tương tự khác trong tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

- Từ những kết quả nghiên cứu trên, luận án góp phần xác định những

giá trị làm nên tính đặc sắc của nghi lễ thờ Mẫu Nam Bộ, và trên bình diện

rộng hơn, là giá trị và bản sắc văn hóa tâm linh Nam Bộ.

7. KẾT CẤU LUẬN ÁN

Mở đầu

hương I CƠ SỞ Ý UẬN VÀ HỰC IỄN

hương II: ẶC RƯNG VĂN HÓA HỂ HIỆN RONG HÌNH HỨC BÓNG

RỖI, CHẶP ỊA NÀNG

Page 10: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

6

hương III ẶC RƯNG VĂN HÓA HỂ HIỆN RONG NỘI DUNG BÓNG

RỖI, CHẶP ỊA NÀNG

Kết luận

Phụ Lục

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU

1.1.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

Việc tôn thờ nữ thần là tín ngưỡng cổ sơ, đã hiện diện trong đời sống

tâm linh của nhiều dân tộc trên thế giới. Đặc biệt, tín ngưỡng thờ nữ thần, Mẫu

thần như là các bà mẹ nuôi dưỡng và che chở cho dân tộc, là nhu cầu tâm linh

của những con người sống trong vùng văn hóa gốc nông nghiệp, trọng tĩnh,

sống chủ yếu bằng nghề nông.

Dân tộc Việt là dân tộc gắn với nghề nông. Những công việc đồng áng gắn

bó trực tiếp đến người phụ nữ nên trong quan hệ xã hội, người phụ nữ luôn

được tôn trọng và giữ vai trò to lớn trong gia đình. Đồng thời, xuất phát từ

quan niệm của người nông dân sống bằng nghề trồng lúa Quan niệm về vũ

trụ với m- Dương tương khắc tương sinh, việc tôn thờ thần Đất, Nước, Núi,

Lúa... đều đồng nhất với m và nhân hóa thành nữ tính. 1. Do vậy, trong đời

sống tinh thần và tâm linh, nhiều sự vật, hiện tượng trong tự nhiên được cho là

hóa thân của các nữ thần như thần nước, thần lửa, thần đất... thành bà thủy, bà

hỏa, bà chúa xứ...

Trần Ngọc Thêm đã nhận xét Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố

khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy

tổng hợp; và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần. Tính chất âm

tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực xã hội là lối sống

thiên về tình cảm, trọng phụ nữ, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan

tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực,

cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các Bà Mẹ, các

Mẫu. 2

Thờ Mẫu phản ánh nhận thức về tự nhiên, đề cao vai trò người phụ nữ

trong xã hội nông nghiệp, và thể hiện những khát vọng con người.

1 Ngô Đức Thịnh (2009), ạo Mẫu Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn tín

ngưỡng Việt Nam, Tôn iáo, Hà Nội.. 2 Trần Ngọc Thêm (2006), m về b n ắ văn hóa Việt Nam, Tổng Hợp, TP.Hồ hí

Minh.

Page 11: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

7

1.1.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Nam Bộ

Tín ngưỡng thờ Mẫu theo lưu dân đi vào Trung Bộ, Nam Bộ từ khoảng thế

kỷ XVI-XVII. Tuy cùng tôn kính các vị Mẫu thần, nhưng hệ thống các thần ở

phía Nam mang nhiều sự khác biệt. Ảnh hưởng từ môi trường địa lý, văn hóa,

xã hội, mà tuy có sự tương đồng về ý nghĩa tâm linh nhưng tên gọi cũng như

vai trò, vị trí của các thần đã có sự biến đổi rõ rệt.

Ví dụ các vị thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (thần mây,

mưa, sấm, chớp trong Tứ pháp), hay mẫu Thiên, mẫu Địa, mẫu Thủy, mẫu

Thượng ngàn…trong hệ thống thờ Tứ phủ miền Bắc đã không còn ảnh hưởng

đến danh hiệu của các vị mẫu thần ở miền Nam. Với tư duy của người Nam

Bộ, các vị thần ấy đã trở thành Bà Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ….

Bên cạnh tư duy tôn thờ những vị thần tự nhiên gắn liền với cuộc sống

nông nghiệp và ngư nghiệp của người Nam Bộ, cùng với sự cộng cư với các

cư dân đang sinh sống trên cùng mảnh đất miền Nam, người Việt Nam Bộ đã

tiếp thu tâm thức chung thờ các Bà Mẹ xứ sở. Sự hỗn dung và tiếp biến văn

hóa đã biến đổi nữ thần Po Inư Nưgar của người hăm thành Thiên Ya Na, bà

Chúa Xứ của người Việt, được thờ phụng khắp miền Nam.

Hệ thống các vị Mẫu thần trong đời sống tâm linh của người Việt Nam Bộ

có thể được tìm thấy ở trên khắp vùng với những hình tượng và tên gọi như

Ngũ Hành Nương Nương, Bà ố Hỷ Phu nhân, Bà Diêu Trì Địa Mẫu, Hậu

Thổ Phu Nhân, ửu Thiên Huyền Nữ, Bà húa Xứ, Kim Huê Thánh Mẫu,

Linh Sơn Thánh Mẫu…

ùng với nhiều vị thần ngự trị trong tâm thức của những cư dân từ miền

ngoài, cùng với sự giao lưu văn hóa của nhiều tộc người, sự tiếp nhận và biến

đổi tín ngưỡng thờ những nữ thần tại phương Nam đã đưa đến sự tổng hợp, sự

phức hợp nhiều yếu tố văn hóa để trở thành tín ngưỡng thờ Mẫu (thờ Bà )

riêng của người Việt Nam Bộ.

1.2. NGHI LỄ THỜ MẪU Ở NAM BỘ

1.2.1. Qui trình nghi lễ thờ Mẫu

Cấu trúc của nghi lễ thường theo những trình tự sau

a. Nghi thức ầu an.

b. Ngày thứ hai là lễ chính, còn được gọi là Đoàn ả. Trong ngày thứ

hai, nghi lễ của các bà Bóng thường có những tiết mục

- Khai tràng là nghi thức khai mạc một buổi lễ. ác bà Bóng sẽ đánh

ba hồi trống lệnh với ý nghĩa thông báo cho mọi người biết buổi lễ bắt đầu và

chuẩn bị nghênh đón thần linh về dự lễ.

Page 12: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

8

- hầu mời, thỉnh tổ ác bà Bóng thay phiên nhau ra trước ngai thờ

và bắt đầu các điệu hát rỗi. Đầu tiên là những bài cung thỉnh Tổ của nghề

Bóng và sau là các bài rỗi để mời các vị thánh thần về tham dự lễ.

- Dâng bông, dâng mâm Nghi thức dâng lễ vật là các bông hoa hay

mâm vàng, mâm bạc… lên Bà bằng động tác múa.

- Bán lộc, tức là phân phát các thức lễ vật, thường là trầu cau trong gói

giấy hồng đưa cho người dự lễ gọi là lộc của Bà. Đổi lại người nhận lộc bà sẽ

trả một khoản tiền tượng trưng.

- An vị Sau lễ Bán lộc là nghi thức An vị nhằm các việc lễ đã hoàn

tất, các nữ thần an vị nghỉ ngơi.

Tùy theo mức độ kinh tế của cộng đồng làng xã, hay theo quy định ba năm

phải cúng lớn, mà các nghi thức cúng miếu Bà còn được mở rộng thêm bằng

một số hình thức diễn xướng khác như chặp Địa nàng, xây chầu-đại bội và

Hát Bội.

1.2.2. Ảnh hưởng của nghi lễ cúng đình trong nghi lễ thờ Mẫu Nam Bộ

Trước đây, các nghi lễ tế tự ở đình với ban nhạc lễ, học trò lễ, đào thài và

lễ xây chầu đại bội là những nghi lễ diễn ra trong những dịp tế đình.Theo các

nhà nghiên cứu, nghi thức tế lễ có ban nhạc, có học trò lễ… chính là sự rút gọn

của những quy tắc tế lễ đàn Nam iao trong triều đình phong kiến. Ý nghĩa

cuộc lễ xây chầu đại bội là khai thông Thái cực, làm cho trời đất giao hòa, âm

dương tương giao chuyển động để có thể biến hóa và sinh ra mọi vật.

uộc sống ngày càng thay đổi, người dân trở nên giàu có hơn thì nhu cầu

về chỗ dựa tâm linh ngày càng phát triển. Các cơ sở thờ tự ngày càng to đẹp

hơn, các cuộc lễ trở nên đông vui và hoành tráng hơn, thỏa mãn con người

trong cuộc sống hiện đại. Nhiều ngôi miếu đã trở thành những cơ sở thờ tự có

không gian rộng rãi, cơ sở hạ tầng được mở rộng, đẹp đẽ hơn, ngày càng trở

nên linh thiêng trong tâm thức người dân Nam Bộ. Nghi lễ cúng miếu cũng

không chỉ đơn giản như trước đây mà được tích hợp nhiều thành tố mới, trong

đó có việc mang những nghi thức cúng đình vào cuộc lễ cúng Bà. Bên cạnh

đó, những nghi lễ đặc biệt như Bóng rỗi, chặp Địa-Nàng cũng vẫn được giữ

nguyên, tạo nên sự tổng hợp, phong phú trong các loại hình, mang nét đặc sắc

về sự dung hòa của tâm lý cư dân vùng Nam Bộ.

Lý giải cho việc các ngày lễ cúng Bà ngày càng hoành tráng, tích hợp

nhiều thành tố của nghi lễ cúng đình, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng

có thể do địa vị của Bà ngày càng trở nên quan trọng trong tâm thức người dân

nên họ muốn làm những cuộc lễ trang trọng hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế

và nhu cầu thời đại. Với các phát triển, cải tiến và đổi mới phương thức canh

tác, phương pháp sản xuất, con người đã phần nào khắc phục được các hiện

Page 13: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

9

tượng thiên nhiên, bước đầu tự tạo cho mình những thu hoạch tốt đẹp về nông

nghiệp, do vậy quyền năng của các vị thần Thành Hoàng của làng xã đã không

còn giữ được sự mạnh mẽ như xưa. Riêng với tín ngưỡng thờ Mẫu, các Bà lại

trở thành vị thần phù hộ, thần bổn mạng cho cuộc sống tinh thần và đời sống

vật chất của cư dân, nhất là tầng lớp tiểu thương, những người làm ăn buôn

bán, vì vậy, người dân lại tìm đến Bà nhiều hơn. âu nói của người dân đến

Bà cầu lộc, đến chùa cầu an có thể là một trong những nguyên nhân lý giải

cho hiện tượng ngày càng nhiều người tìm đến Bà.

Với quan niệm ấy, dần dần vai trò của vị mẫu thần đã thay đổi. ác Bà đã

được nhân dân thần thánh hóa thành các thần Thành Hoàng, với chức năng bảo

trợ cho con người như một vị Thành Hoàng và hưởng các nghi lễ như một vị

Thành Hoàng.

1.3. BÓNG RỖI VÀ CHẶP ĐỊA-NÀNG: DIỄN XƯỚNG TRONG NGHI

LỄ THỜ MẪU

1.3.1. Nguồn gốc hình thành Bóng rỗi, chặp Địa nàng

Bóng rỗi và chặp Địa nàng là những nghi thức diễn xướng hình thành

và phát triển trong cái nôi văn hóa của cư dân Nam Bộ. Trong buổi lễ thờ Mẫu

(thờ Bà), ngoài việc tích hợp các nghi lễ cúng đình với đào thài, ban nhạc lễ,

v.v… tạo nên sự trang nghiêm, thì Bóng rỗi và chặp Địa nàng là những nghi

thức quan trọng đã tồn tại từ xưa trong lễ cúng Bà, được cho là hình thành từ

trong khoảng cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX. Chức năng chính của

Bóng rỗi và chặp Địa nàng là cầu tài lộc, cầu xin chữa bệnh và cầu sự bình an

cho tâm hồn.

1.3.1.1.Bóng rỗi

Bóng rỗi, hay hát Bóng rỗi là một loại hình nghệ thuật do các ông, bà

Bóng thực hiện, cất lên những lời ca thờ cúng, xưng tụng thần linh. hưa ai

biết chính xác Bóng rỗi ở Nam Bộ có nguồn gốc từ đâu, ai là người sáng tạo và

xuất hiện trong những buổi lễ cúng Bà từ lúc nào. Tuy nhiên, đây là loại hình

diễn xướng đặc biệt phục vụ trong các nghi lễ cúng Bà của người dân Nam Bộ.

Bóng rỗi gồm có h t i và múa bóng. H t i là hệ thống các bài bản

thể hiện bằng ngôn ngữ thanh nhạc, với tư cách là những lời ca tụng công đức

của những vị thần được tôn thờ (như Bà húa Xứ, Ngũ Hành Nương

Nương…) và những lời mời chào các vị thần về dự lễ, hoặc chuyển tải ước

vọng của con người lên thần linh.

Múa bóng là hệ thống các động tác thể hiện ngôn ngữ hình thể, thực hiện

trong khi dâng lễ vật lên thần linh.

Page 14: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

10

Qua các khảo sát, nghiên cứu và phân tích, thì nghi thức Bóng rỗi là một

trong những hình thức diễn xướng dân gian, bắt nguồn từ cách múa dâng lễ

trong các nghi lễ ở các đền, Tháp thờ các vị Mẫu thần của người hăm. Bà

Bóng cũng như những Pajao, là những nhân vật không thể thiếu trong ngày lễ

này. Các bà có nhiệm vụ như người hầu cận thân tín, có thể tiếp xúc với vị nữ

thần và dâng những lễ vật cũng như những lời cầu xin lên vị thần ấy.

1.3.1.2. Chặp Địa nàng

Theo Huỳnh Ngọc Trảng, bản Địa-Nàng được cho là xưa nhất đã được ghi

lại bằng chữ Nôm, ở chùa Long Triều (Bình hánh-thành phố Hồ hí Minh).

Ấn bản Địa Nàng xuất bản đầu tiên là bản Ông Địa-Tiên nương, (hát đối đáp

theo cuộc múa bóng/ Traduit par Nguyễn Hữu Phước/ Saigon, Phát Toán

Libraire- Imprimeur) được xuất bản lần thứ nhất năm 1912. … Thơ tuồng

Địa-Nàng do ử Hoành Sơn trước soạn, nhà in Xưa Nay của Nguyễn Hảo

Vĩnh xuất bản (đoán định khoảng 1920-1930). 3 So sánh những văn bản còn

lưu giữ với những buổi biểu diễn chặp Địa- Nàng trong các lễ cúng gần đây,

cho thấy nội dung của chặp Địa- Nàng vẫn được giữ nguyên với hai nhân vật

ông Địa và Nàng Tiên. ốt truyện kể về hành trình đi tìm giếng Tiên theo lệnh

Bà. Trên đường đi đến nơi lấy nước, nàng Tiên đã bị lạc đường và phải cầu

viện ông Địa chỉ đường.

Theo nhà nghiên cứu Lê Ngọc ầu4, tác giả sách uồng h i cho rằng chặp

Địa nàng là hình thức thô sơ của thể loại Tuồng (Hát Bội). Do vậy tác giả cho

rằng chặp Địa nàng là tiền thân của nghệ thuật Tuồng, ra đời từ rất xa, trước

khi có nghệ thuật Tuồng.

Theo Huỳnh Ngọc Trảng, trong thời điểm nghệ thuật Hát Bội đang phổ

biến và đang là môn nghệ thuật thời thượng, thì người ta đã rút ra những yếu tố

từ trong bộ môn này để làm thành một thể loại diễn xướng khác. Hay người ta

bắt chước hình thức này để tạo nên một hình thức tương tự. Do vậy, chặp

Địa nàng đã chịu ảnh hưởng của Hát Bội một cách sâu sắc và được tạo thành

sau khi Hát Bội thịnh hành tại miền Nam.

Với sự khảo sát và phân tích qua nhiều tư liệu, chúng tôi nhận thấy chặp

Địa nàng rõ ràng có chịu ảnh hưởng từ Hát Bội về phương diện âm nhạc, hình

thức biểu diễn. Nhưng với thể loại diễn xướng này thì có khá nhiều tương

đồng với một số bản tuồng trong dân gian có xuất xứ trước khi Hát Bội vào

miền Nam. Tuy nhiên, với những tư liệu từ thực tế, chúng tôi đồng ý với quan

3 Huỳnh Ngọc Trảng (1992), ịa N ng, hặp óng uồng h i Nam ộ, TP.Hồ hí

Minh . 4 Lê Ngọc ầu (19 0), uồng h i, Văn Hóa, Hà Nội.

Page 15: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

11

điểm là chặp Địa nàng được định hình và phát triển sau khi Hát Bội phát triển

tại miền Nam.

1.3.2. Vị trí-vai trò của Bóng rỗi và chặp Địa nàng trong nghi lễ thờ

Mẫu Nam Bộ

Từ những nhận thức về thờ Mẫu kết hợp với môi trường văn hóa xã hội

vùng đất phương Nam, đã hình thành nên nghi lễ thờ Mẫu mang tính chất đặc

trưng vùng rõ rệt mà nghi thức tiêu biểu là Bóng rỗi và chặp Địa nàng.

Nhìn từ góc độ văn hóa học thì Bóng rỗi và chặp Địa nàng là những hoạt

động văn hóa trong đời sống tâm linh của người Nam Bộ. Hoạt động văn hóa

tâm linh này có tác dụng thỏa mãn nhu cầu tâm linh và giải trí, đồng thời có

chức năng giáo dục đạo đức, nối kết cộng đồng. Loại nghi thức diễn xướng

này đã lưu giữ những giá trị nhân sinh qua nội dung cũng như những giá trị về

nghệ thuật. húng thể hiện tính đa văn hóa trong quá trình tích hợp những giá

trị văn hóa- nghệ thuật từ môi trường tự nhiên và xã hội của vùng đất phương

nam. Ở đây, yếu tố tín ngưỡng và nghệ thuật có sự đan xen, hòa quyện vào

nhau làm cho người tham dự cùng lúc thỏa mãn được nhu cầu tâm linh và nhu

cầu giải trí thông qua hưởng thụ những giá trị văn hóa nghệ thuật của loại hình

này.

TIỂU KẾT

Bóng rỗi và chặp Địa nàng với những nghi thức lưu truyền từ xa xưa, là

vốn văn hóa cổ truyền vô giá đang được người dân Nam Bộ gìn giữ và lưu

truyền. húng là sản phẩm của dân gian, chuyển tải những khát vọng tiềm ẩn

về sự nối tiếp giữa thế giới siêu nhiên và thế giới thực tại, sự khát khao, cầu

mong an khang thịnh vượng của người dân Nam Bộ.

Ngày nay, những nghi thức cúng Mẫu của người Nam Bộ cũng đã tích hợp

các lớp văn hóa hiện đại, đặc biệt là sự biến đổi ở phương diện hình thức (thể

hiện qua lễ vật, hình thức diễn xướng,v.v…). Sự biến đổi đó là tất yếu, là quy

luật chung, có mặt tích cực và cũng có mặt tiêu cực của chúng. Do đó, chúng

ta nên có những giải pháp kịp thời nhằm ngăn chặn những mặt tiêu cực, đồng

thời bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa đích thực, đúng đắn mà

loại hình này mang lại cho đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân Nam Bộ.

Chương 2

ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ THỂ HIỆN TRONG HÌNH THỨC BÓNG

RỖI, CHẶP ĐỊA NÀNG

2.1. KHÔNG GIAN, THỜI GIAN, CHỦ THỂ

Được coi như những loại hình diễn xướng tổng hợp, có âm nhạc, múa hát,

diễn trò… Bóng rỗi và chặp Địa nàng mang trong nó những tính chất của loại

Page 16: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

12

hình sân khấu diễn xướng dân gian, tồn tại trong không gian và thời gian.

Thông qua những hình thức biểu hiện bên trong tự thân của nghi lễ mà người

xem cảm nhận được những thông điệp nội dung mà nghi lễ muốn chuyển tải.

2.1.1. Không gian và thời gian diễn xướng

Về cơ bản, chỉ trong một không gian thiêng cụ thể là trước ngai thờ Bà,

ông Địa và nàng Tiên, qua ngôn ngữ lời thoại và diễn xuất, đã mang đến một

không gian đa dạng, luôn biến chuyển, sinh động và đầy màu sắc. ó vừa là

không gian thiêng, vừa là không gian nghệ thuật; vừa là không gian thực, vừa

là không gian o.

ũng như các khái niệm về không gian nghệ thuật-không gian ước lệ, bên

cạnh thời gian vật lý, thì thời gian nghệ thuật cũng chỉ là những quan niệm

tương đối về một thời điểm nào đó mà nghệ thuật sân khấu diễn tả; người xem

mặc nhiên chấp nhận và cùng sống trong khoảng thời gian ấy.

Ví dụ: trong những câu hát, người xem được dẫn dắt đến những không

giản rộng mở như đồi, núi, rừng sâu…nhưng khi kết thúc chặp diễn, các ông

bà Bóng lại dẫn dắt người xem đến ngay nơi miếu Bà, nơi người dân đang có

mặt.

Với những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong Bóng rỗi và chặp Địa

nàng, không gian và thời gian cho các nghi thức diễn xướng này vừa là không

gian-thời gian khép kín mang tính thiêng, đồng thời cũng là không gian-thời

gian mở cho người thưởng thức. Chỉ trong một không gian cụ thể trước ngai

thờ Bà, ông Địa và nàng tiên, qua ngôn ngữ lời thoại và diễn xuất, đã mang

đến một không gian đa dạng, luôn biến chuyển, sinh động và đầy màu sắc.

2.1.2. Chủ thể diễn xướng

2.1.2.1. Nhân vật Bóng

Được coi là sứ giả chuyển lời khấn cầu của người dân lên vị mẫu thần mà

họ tôn quý, những ông Bà Bóng giữ vai trò chuyển tải khát vọng của cả cộng

đồng qua những lời hát rỗi, qua chặp diễn Địa nàng…Họ có thể ở bất cứ giới

tính nào nhưng thông thường mang tính nữ nhiều hơn. Họ thường có điểm

chung là người được cho là có căn , được nữ thần chọn làm người hầu cận;

hoặc họ đau ốm liên miên mà chỉ có làm bóng mới trở nên mạnh khỏe. Trong

giới bóng miền Nam cũng có chia làm hai loại bóng vu vi (bóng căn, bóng

cốt) và bóng tuồng. Ngoài bóng vu vi, bóng cốt, là những người cho Bà

mượn thân xác để nhập vào (hiện nay hầu như không còn thấy), thì những

người làm Bóng tuồng đều trải qua một thời gian học hành bài bản, có Thầy

kèm cặp, hướng dẫn và dắt ra làm nghề.

2.1.2.2. Nhân vật thực hiện chặp Địa nàng

Page 17: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

13

Chặp diễn có hai nhân vật ông Địa và nàng Tiên.

Thông thường, các ông bà Bóng cũng rèn luyện để có thể đảm nhận vai trò

diễn chặp Địa nàng, nhưng cũng có khi ông Địa và nàng Tiên có xuất thân là

các diễn viên đoàn nghệ thuật Hát Bội. Họ cũng phải trải qua một thời gian

luyện tập để có thể hoàn thành được chặp Địa nàng một cách hoàn hảo.

2.1.2.3. Văn hóa ứng xử trong cộng đồng Bóng

Thông thường, trong các cuộc lễ, người ta mời một nhóm bà Bóng đến

dâng lễ. Nhóm là tập hợp của các bà Bóng và nhạc công, có thể chỉ là 1,2

người, nhưng cũng có khi đến 6, 7 người. ác bà Bóng thường đi theo từng

nhóm, có thể là bạn bè quen biết hay cùng một Thầy dạy.

Tuy nhiên, khi miếu Bà là nơi linh thiêng và là chỗ nương tựa của

nhiều đệ tử khác, thì các bà Bóng có mối liên hệ với miếu cũng có thể đến

xin tự hát rỗi. Một phần để tỏ rõ lòng thành của mình đối với Bà; mặc khác, họ

cũng muốn chứng tỏ tài nghệ của mình. Vì thế nếu những miếu có tiếng tăm

thì số lượng các bà Bóng có thể lên đến số chục. Tham dự những buổi lễ ấy,

chúng tôi nhận thấy các bà Bóng tuy chưa quen biết nhau nhưng qua vài câu

chuyện cởi mở thì họ đã thiết lập được mối quan hệ thân tình, dễ chịu. Qua

một vài cuộc điền dã, chúng tôi nhận thấy đây không phải là trường hợp cá

biệt. ó thể các bà Bóng chưa thật sự ưa thích nhau, cũng có thái độ bằng mặt

mà không bằng lòng , nhưng chưa có trường hợp chối từ không cho hát cúng

Bà. Những Bóng thuộc giới thứ ba thường thiết lập quan hệ nhanh hơn những

bà Bóng thuộc giới nữ.

ách ứng xử cởi mở, rộng rãi này thể hiện tính cách bao dung của

người miền Nam dưới mọi góc độ cuộc sống. Tính cách bao dung không phải

chỉ có ở người Việt, và cũng không phải chỉ có ở người Việt Nam Bộ, nhưng

tính cách bao dung được coi như đặc trưng của tính cách người Nam Bộ. Bởi

vì môi trường tự nhiên-xã hội và quá trình cộng cư, giao lưu với nhiều nền văn

hóa tại nơi đây đã làm cho tính cách bao dung trở nên nổi bật hơn.

2.2. LỄ VẬT VÀ ĐẠO CỤ

2.2.1. Lễ vật

Trong những ngày lễ Vía Bà, miếu được trang hoàng rực rỡ. Những lá cờ

ngũ sắc được treo chung quanh cổng chào và trong miếu. Bàn thờ Bà trở nên

lộng lẫy với đèn, nến, hương hoa, với những sản vật địa phương như một sự

thành kính nhớ ơn sự phù hộ của vị thần.

Đặc biệt trong các lễ cúng miếu Bà ở vùng Nam Bộ, ngoài các đĩa trái cây

được chưng bày trên những mâm, đĩa, như trên các bàn thờ thông thường, còn

có một loại hình trang trí độc đáo là sắp xếp trái cây thành hình những con vật

Page 18: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

14

linh thiêng như long, lân, quy, phụng. ách trưng bày này được người phương

nam gọi là h ng nghi. Đây là cách thức chưng trái cây độc đáo của các nghệ

nhân ở Nam Bộ, nơi có chủng loại trái cây đa dạng và đặc sắc. Không chỉ là

một cách sắp xếp lên bàn thờ mà đây còn là nơi gửi gắm những mong ước và

cách chưng này kích thích người ta sáng tạo những hình ảnh độc đáo, lạ mắt,

khuyến khích sự tìm tòi, học hỏi và góp phần tạo nên một nghệ thuật độc đáo

của cư dân miền Nam.

2.2.2. Lễ vật-đạo cụ trong rỗi Bóng

Một loại lễ vật vừa mang tính tâm linh, vừa mang tính nghệ thuật biểu

diễn, không thể thiếu trong một lễ cúng Bà là mâm vàng, mâm bạc.

Xét về mặt tâm linh, mâm vàng, bạc là lễ vật đặc trưng cho tín ngưỡng

thờ Mẫu Nam Bộ, có chức năng là phẩm vật chứa đựng lòng thành kính, chứa

đựng ước vọng mong cầu về gia đạo, sức khỏe, mùa màng v.v... và sẽ được

chuyển đến các vị thần qua hình thức hỏa hiến. Về mặt nghệ thuật, mâm vàng,

bạc là đạo cụ biểu diễn, là cầu nối giúp cho các bà Bóng có thể thông linh

với thánh thần qua các động tác múa sử dụng hình thể cùng với động tác dâng

mâm.

2.2.3. Lễ vật-đạo cụ trong chặp Địa nàng

Nhân vật Địa và Nàng luôn luôn cầm chiếc quạt trên tay. Màu sắc sẽ tương

ứng với quần áo của Nàng. hiếc quạt là vật bất ly thân trong quá trình biểu

diễn. Theo quan niệm dân gian, cái quạt làm ra gió mát, có ý nghĩa là mang

đến những điều lành. Ông Địa lúc nào cũng cầm quạt, cũng có nghĩa là mang

những điều tốt lành đến với mọi người.

Tuy chặp diễn Địa nàng không cần sử dụng nhiều đạo cụ, nhưng trong khi

diễn, những phẩm vật trên bàn thờ Bà cũng được trưng dụng trong quá trình

ông Địa và nàng Tiên ứng đối . Ví dụ trong đoạn Địa ăn chè, thì chén chè

được lấy trên bàn thờ xuống để diễn. Hay đoạn ăn trái cây thì Nàng cũng xin

Bà một trái nào đó đang được cúng trên bàn thờ, mang xuống diễn.

2.3. PHƯƠNG THỨC DIỄN XƯỚNG

2.3.1. Hát rỗi

Hát rỗi là hình thức dâng những lễ vật, dâng lời cầu xin của người dân lên

các vị thần thánh bằng âm nhạc, lời hát, để cầu mong sự độ trì của Bà cho một

cuộc sống hạnh phúc, ước mơ no ấm.

Sau lễ khai tràng của dàn nhạc, các bà Bóng bắt đầu bằng nghi thức chầu

mời, thỉnh tổ. Trên các lời văn có sẵn, các bà Bóng đưa vào các làn điệu dựa

theo hơi nhạc tài tử miền Nam như Xuân, Ai, Đảo… vào các bài rỗi. Nội dung

diễn tả cảnh đẹp của vùng đất, nói đến những con người đang sinh sống nơi

Page 19: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

15

đây với tấm lòng thành kính mong muốn được mời các vị Thần về chứng lễ

ngày hôm nay. ó các bài rỗi riêng dành cho các vị Thần như bài rỗi mời Bà,

mời Ông, mời ô, mời ậu, mời các cô hồn, chiến sĩ, v.v… về tham dự buổi

lễ. Mỗi bài rỗi là một bài ứng tác tuy có nội dung gần tương tự nhau với những

điều mong ước như cầu gia đạo bình an, cầu tài lộc, cầu sức khỏe,v.v… nhưng

được thể hiện bằng những sáng tạo khác nhau của từng bà Bóng nên không có

một mẫu số chung, không bị trùng lặp câu chữ.

2.3.2. Múa

Múa bóng là hệ thống các động tác thể hiện ngôn ngữ hình thể, thực hiện

trong khi dâng lễ vật lên thần linh.

Bên cạnh những lời rỗi, phương thức diễn xướng bằng động tác hình thể

cũng là điểm đặc biệt trong thể loại này. Các bà Bóng đã dùng nhiều đạo cụ

khác nhau dâng lên Bà, thông qua đó thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật

của người dân. ác điệu múa dâng Bà thường được chia làm hai loại chính

múa mâm (dâng lộc nói chung) và múa đồ chơi (có chức năng giải trí). Về kỹ

thuật thì múa được chia thành múa đồ đầu và múa đồ bêu.

Những loại đạo cụ trong múa dâng lộc như mâm vàng bạc, bông hoa, trái

cây, trầu cau…

Những loại đạo cụ trong múa đồ chơi dao, kiếm, lu khạp, ghế, bàn, độc

bình, lông công, xe, trống…

Tuy có khác nhau về các dụng cụ thể hiện trong nghi lễ múa Bóng, nhưng

chúng có những đặc điểm chung

- Tất cả các dụng cụ đều được để trên đầu khi múa.

- Động tác của hai tay rất đơn giản, không có quy tắc cụ thể, hầu hết các

động tác chỉ xoay quanh cổ tay, chủ yếu là động tác là cuộn tròn tay, không

phải là những động tác quy định của bài múa hiện đại. Tay chỉ sử dụng động

tác như một cách giữ thăng bằng cho dụng cụ đang ở trên đầu. Vì lẽ đó, không

thể xếp loại hình múa này vào loại nghệ thuật Múa theo quan niệm và cách

định nghĩa thông thường.

- Không có bộ điệu cho động tác chân. hân và thân mình thường nhún lên

xuống theo trục thẳng đứng của cơ thể, các bước chân lên xuống không theo

nhịp bắt buộc. Lý do là chân và thân mình luôn phải giữ trọng tâm để vật trên

đầu không rơi xuống đất.

- Mặt luôn luôn hướng về phía bàn thờ. Nếu có quay tròn thì cũng phải

quay thật nhanh để trở lại vị trí trước bàn thờ. Tối kị việc múa với những động

tác đưa lưng hoặc thân vào bàn thờ.

Page 20: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

16

Những điều này thể hiện rõ nhận thức của người dân trong các nghi lễ đối

với thần linh. Họ tỏ rõ sự kính trọng Bà bằng cách đội lễ vật lên đầu, các động

tác múa chỉ là việc cách điệu hoá nghi thức dâng lễ vật.

2.3.3. Diễn chặp Địa nàng

hặp Địa nàng là một trong những thể loại diễn xướng dân gian. ũng như

những thể loại diễn xướng khác như hèo, các loại kể thơ, Tuồng vè, Tuồng

hài, nội dung của cốt truyện cũng được kể và diễn theo trình tự thời gian sự

việc. Nội dung của chặp diễn là nàng Tiên được Bà sai đi lấy nước, lạc đường

và xuống nhờ ông Địa chỉ đường. Lồng trong cốt truyện đơn giản ấy là những

trò diễn, những m ng mi ng theo lối diễnTuồng đồ (Tuồng mang tính hài hước

nhiều hơn).

Lối viết chỉ chú trọng vào cốt truyện mà không viết rõ về cách thể hiện của

nhân vật làm cho sân khấu diễn xướng dân gian nói chung, chặp Địa nàng nói

riêng có sự hấp dẫn mang yếu tố bất ngờ. Với ối di n ơng dựa trên cốt

truyện, khán giả được xem những trò diễn vui nhộn, những đối đáp thú vị từ

hai nhân vật này.

Bên cạnh đó, cách phục sức, hóa trang, cũng như phương thức diễn đạt

theo lối biểu trưng, ước lệ củaTuồng (Hát Bội) tạo thành một bức tranh nhiều

màu sắc sinh động của nhân vật, của tình tiết, của chặp diễn.

Những người đến tham dự lễ hội cúng Bà không phải lần đầu tiên, nhưng

người ta vẫn thích xem Bóng rỗi, xem hát chặp Địa nàng. Người ta đến để xem

hát nh th n o chứ không phải là hát cái gì. Do vậy các nhân vật ông Địa,

nàng Tiên phải thật linh hoạt, biết biến báo, cập nhật hoàn cảnh, môi trường để

tạo nên sự thích thú cho người xem.

2.3.4. Âm nhạc

m nhạc bắt nguồn từ cuộc sống của con người và thể hiện những ý nghĩa

mà con người muốn gửi gắm. m nhạc là một trong những thành tố quan trọng

trong các buổi lễ, là cầu nối giữa con người với đối tượng được tôn thờ.

2.3.4.1. Giai điệu

ác loại hơi được sử dụng chủ yếu trong Bóng rỗi là hơi Xuân, Ai,

Đảo hay Dựng.

Hơi Xuân là thang âm đặc thù trong nhạc miền Nam nói chung, hiện

diện trong nhạc Lễ, hát Bội, Tài tử… Bóng rỗi sử dụng hơi Xuân làm làn hơi

chủ yếu. Tuy dựa vào thang âm điệu thức đã có sẵn, nhưng hơi Xuân ở đây

không giống hoàn toàn với hơi Xuân trong nhạc Tài Tử. Trong nghệ thuật học,

đặc điểm của hơi Xuân với những quãng 3 nhấn trả về, vừa trang nghiêm vừa

Page 21: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

17

thanh thản, lại không quá mạnh mẽ, hùng tráng, mang lại nét thư thái cho bản

nhạc cũng như cho tâm hồn người nghe.

Hơi Ai ở đây là thang âm chịu ảnh hưởng từ thang âm hát ru của người

Nam Bộ, với nét buồn man mác và sử dụng những quãng 4. Với những câu hát

thể hiện mong ước của con người về một cuộc sống an hòa, hạnh phú, hay cầu

mong Bà và các vị thần ban cho cuộc sống ấm no, an lạc thì thường được các

bà Bóng diễn tả trên hơi Ai.

Hơi o hay Dựng ít được dùng hơn, chủ yếu dành cho những đoạn

chuyển trở lại bài, hay được dùng trong bài rỗi đặc biệt như bài rỗi ậu.

m nhạc là tiếng nói của tâm hồn, nên ở đây có thể nói, hơi Xuân

được dùng để chuyển tải nội dung có tính chất trang nghiêm, tôn kính mà bà

Bóng và người dự lễ dành cho thần thánh, còn hơi Ai dùng để họ thổ lộ hay

tâm sự với ước vọng là thánh thần sẽ chiêu cảm hiểu và đón nhận những

lời khẩn cầu như vậy.

2.3.4.2. Tiết tấu

Tiết tấu một bài rỗi lúc nào cũng phải thay đổi từ chậm đến nhanh rồi lại

chậm. Đó cũng là một trong những phương thức thể hiện quy luật âm dương,

quy luật cuộc sống. ũng như thủy triều lên xuống, như nhịp sinh học trong cơ

thể con người, cũng như hai mặt đối lập của một hiện tượng, người xưa đã quy

định phải có nhanh rồi chậm, rồi nhanh hay là chậm, nhanh, chậm. Không có

bài rỗi nào chỉ sử dụng một tiết tấu, một nhịp điệu, một hơi nhạc duy nhất từ

đầu đến cuối bài. Chúng ta thấy có nhiều nét tương đồng về tiết tấu của âm

nhạc trong nghi lễ thờ Mẫu Nam Bộ với các nghi thức trong tín ngưỡng

Shaman giáo ở những nơi khác. Các loại nhạc khí gõ luôn giữ vai trò chủ đạo

để dẫn dắt tiến trình của nghi thức. Tiết tấu làm cho con người dễ dàng bị cuốn

hút vào buổi lễ, làm cho buổi lễ sống động, tạo một không khí cần thiết cho

việc nhập hồn của các Thần.

2.3.4.3. Nhạc khí

Nhạc khí chính đệm cho hát bóng rỗi là cây đàn Cò (Nhị) và Trống lệnh.

Tuy chỉ có một nhạc khí chính nhưng cây đàn cò là nhạc khí rất phù hợp để

chuyển tải nội dung và hình thức nghệ thuật Bóng rỗi. Bởi vì đây là một nhạc

khí chuyển dây rất nhanh, có thể phù hợp cho mọi loại hơi của miền Nam và

bắt kịp tất cả các giọng hát của người rỗi.

Ngoài ra, nếu các miếu có kinh tế dồi dào thì có thể mời đầy đủ một ban

nhạc với các nhạc khí hỗ trợ cho buổi lễ thêm phần long trọng như đàn Kìm,

đàn Sến, uitare phím lõm, các loại Kèn…

Page 22: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

18

TIỂU KẾT

Như vậy, qua những xem xét và phân tích về hình thức diễn xướng, chúng

ta có thể hiểu thêm về không gian thiêng và không gian nghệ thuật, thời gian

vật lý cũng như thời gian tâm linh-nghệ thuật của Bóng rỗi và chặp Địa nàng.

Ở đây, không gian thiêng và không gian nghệ thuật, thời gian vật lý cũng như

thời gian tâm linh-nghệ thuật, vừa là sự tách rời, khu biệt trong diễn tiến sự

việc, vừa là một khối thống nhất trong tâm thức người xem.

hủ thể thực hiện hai nghi thức diễn xướng này là các ông bà Bóng, những

người được cho là sứ giả của thần linh, có thể thông linh với thần thánh để

dâng lời cầu xin của cộng đồng qua hình thức ngôn ngữ, âm nhạc và múa.

ùng với việc khảo sát về trang phục của những người thực hiện nghi thức

Bóng rỗi, chặp Địa nàng; lễ vật dâng cúng vị nữ thần trong tâm thức dân gian

Nam Bộ, khảo tả về các đạo cụ sử dụng trong quá trình thực hiện nghi thức,

các loại nhạc khí được sử dụng để tạo nên một không khí chung cho buổi lễ,

luận án mang đến cái nhìn toàn diện hơn về đời sống văn hóa tâm linh của

người Việt qua những cách thể hiện bằng hình thức nghi lễ diễn xướng thờ

Mẫu nơi đây.

Chương 3

ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ THỂ HIỆN TRONG NỘI DUNG

BÓNG RỖI, CHẶP ĐỊA NÀNG

3.1. BÓNG RỖI, CHẶP ĐỊA NÀNG, SỰ PHẢN ÁNH NHẬN THỨC VỀ

TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI

3.1.1. Quan niệm về âm dương- ngũ hành

Triết lý âm dương cổ sơ đã thấm sâu trong tư tưởng, thể hiện qua cách nói,

cách làm của con người Việt Nam.

Trong nhận thức, trong nội dung lời rỗi, trong giai điệu âm nhạc Bóng

rỗi… dù không viết ra thành những quy luật cố định, không đưa ra thành lý

thuyết, định luật cụ thể nhưng trong cách đặt danh từ bài nhạc, sắp đặt thang

âm điệu thức, sắp xếp các nhạc khí trong các buổi lễ... đều thể hiện rõ ảnh

hưởng nguyên lý âm dương.

ó thể thấy quan niệm này được biểu đạt qua nhiều cách, như xem Ngũ

Hành Nương Nương là hiện thân của năm vị thần, ứng với năm nguyên tố chủ

đạo để cấu tạo nên mọi vật trên thế gian. Người xưa cho rằng năm nguyên tố

này ứng với năm màu sắc chính và năm loại vật chất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

Khi rỗi bóng, những lời rỗi mời lúc nào cũng có năm vị nữ thần này. Vì năm vị

Page 23: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

19

tượng trưng cho năm màu nên mâm cúng Ngũ Hành Nương Nương sẽ là mâm

ngũ sắc.

Sau lời rỗi cúng Bà thì phải mời Ông, mời ô phải có mời ậu, nhạc khí

có âm có dương v.v…

ũng như thế, ngay cách tạo hình nhân vật Địa nàng, cách biểu đạt nội

dung chặp diễn…cũng ẩn chứa những quan niệm âm dương cổ sơ của cư dân.

Hình tượng ông Địa thì cục mịch, no tròn, đầy đặn, sử dụng ngôn ngữ

bình dân dễ hiểu. Nàng Tiên tha thướt, ẻo lả, dịu dàng, nói năng văn vẻ. Áo

ông Địa có màu chủ đạo là màu vàng tượng trưng cho Thổ, áo nàng Tiên lấy

tông chủ đạo là xanh trắng tượng trưng trời.

Hình thức cặp đôi Địa-Nàng , ông Địa và nàng Tiên, thể hiện nhận

thức của người xưa về trên-dưới, trước-sau, cao-thấp. Hình thức cặp đôi này

được thấy ở một số trò diễn của dân tộc Việt, mà cũng thấy ở nhiều dân tộc

trên thế giới, nhất là trong những câu chuyện kể hay trong lễ hội giả trang ở

các nước châu u thời Trung cổ mà Bakhtin5 đã đề cập đến trong tác phẩm

S ng t ủa F an oi Rab ai v nền văn hóa dân gian ung Cổ v Phụ

h ng của ông. Những câu chuyện cổ tích nói về một người anh hùng đi xuống

địa ngục cũng tương tự như motif từ trên trời đi xuống. Với người Việt, hình

tượng của cặp đôi này được nhận thức như hai mặt âm-dương của một vật thể.

Ông Địa tượng trưng cho một vị thần cai quản đất của một vùng, nàng Tiên từ

trên trời đi xuống tìm nước. Người dân Việt coi đất thuộc tính âm, gặp tính

dương từ trời xuống, âm dương hòa hợp sinh ra vạn vật. Tuy nhiên, trong âm

có dương và trong dương có âm, do vậy Mẹ Đất nhưng lại hiện diện nhân vật

ông Thổ Địa, và ha Trời lại có biểu tượng là nàng Tiên

3.1.2. Thể hiện ước vọng phồn thực

Nhân vật ông Địa trong chặp Địa nàng được mô phỏng hình ảnh của ông

Địa ngày nay mà nhân dân Nam Bộ thường thờ cúng, với những đặc điểm tiêu

biểu bụng thật bự, vú lớn, chít khăn choàng đầu màu đỏ, miệng lúc nào cũng

tươi cười. Việc tạo hình ông Địa với những yếu tố no tròn, đầy đặn cũng thể

hiện sự phồn thực, đầy đủ mà người dân muốn gửi gắm trong hình tượng ấy.

Trong chặp Địa Nàng, có nhiều tình tiết thể hiện quan niệm, triết lý của cư

dân mà những quan niệm đó được hình thành theo tín ngưỡng phồn thực lâu

đời của các cộng đồng cư dân gốc nông nghiệp.

5 M.M. Bakhtin, S ng t ủa Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian ung Cổ

v Phụ H ng, KHXH, Hà Nội.

Page 24: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

20

Đoạn Địa đẻ là một ví dụ. Địa đẻ tức là đất đai sinh sôi nảy nở, phì nhiêu,

tươi tốt. Đất cũng như người, cũng sinh sôi nảy nở để mang lại sự phồn thịnh,

no ấm cho con người. Quan niệm này cũng được được nhìn thấy ở những dân

tộc sống chủ yếu bằng nghề nông, gắn bó mật thiết với đất đai, mùa màng.

Những cư dân nông nghiệp này cũng có nhiều cách thức ma thuật khác nhau

để mong cầu mùa màng tươi tốt.

Bên cạnh đó, đối với cư dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, nước

là yếu tố cần thiết nhất cho cuộc sống lao động. Do vậy, lễ cầu mưa bao giờ

cũng là cuộc lễ mang ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của người

dân. Đề tài của chặp Địa Nàng, hình ảnh nàng Tiên xuống huê viên lấy nước,

mang ý nghĩa đem nước đến, mang sự sống và sự no ấm đến cho mọi người,

thể hiện ước vọng từ ngàn đời của người nông dân.

3.1.3. Nhận thức về xã hội

Văn hoá, cũng như bất cứ sự sáng tạo nào cũng chịu sự tác động của môi

trường tự nhiên và môi trường xã hội. Bóng rỗi, chặp Địa nàng cũng là những

sản phẩm văn hoá do con người Nam Bộ tạo ra. Thông qua nội dung Bóng rỗi,

chặp Địa nàng, người Việt Nam Bộ đã thể hiện được sự nhận thức và ứng xử

với môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, thể hiện nhu cầu tâm linh và

nhu cầu giải trí của mình.

Bóng rỗi, cũng như các loại nghi thức diễn xướng trong các nghi lễ thờ

Thần, thể hiện nội dung chính là xưng tụng công đức của vị Thần mà người

dân tôn thờ. Những nội dung này biểu hiện trước hết là lòng tri ân của hậu thế

dành cho các vị thần có công với nước, với dân; thể hiện lòng biết ơn các vị

thần linh đã cưu mang, che chở cho con người trước những khó khăn do thiên

nhiên và môi trường mang lại. Bà hay bất kỳ một vị thần thánh nào trong

tâm thức người dân Nam Bộ không hướng về thế giới bên kia mà hướng về thế

giới hiện tại, đời sống hiện tại, giúp con người thỏa mãn ước vọng về vật chất

và tinh thần.

Những tri thức bản địa như tri thức về thiên nhiên, về môi trường sống, về

quan niệm đạo đức, về xã hội đương thời… cũng được lồng ghép vào Bóng rỗi

và chặp Địa nàng. Đây không chỉ là những yếu tố nằm trong nội dung của nghi

thức diễn xướng, mà nhờ diễn xướng, những tri thức này được giữ lại, được

trao truyền cho mọi người, cho các thế hệ. Điển hình là các loại hát vè như vè

con kiến, vè trái cây, vè hoa, vè chợ v.v..thậm chí có cả những bài vè kể về các

tầng lớp xã hội (hương chánh, hương sư, thày cả…), vè truyền đạt những kinh

nghiệm trong đời sống như vè đám cưới v.v…

Ngoài ra nội dung bài rỗi còn diễn tả những cảnh đẹp quê hương, nói về

những sự vật hiện tượng trong cuộc sống đời thường, hay thể hiện ước mơ về

một cuộc sống yên vui, no ấm.

Page 25: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

21

3.2. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG TÍNH CÁCH NAM BỘ THỂ HIỆN TRONG

BÓNG RỖI VÀ CHẶP ĐỊA NÀNG

3.2.1. Tính tích hợp

Tính tích hợp (Syncretism) là tính chất được tạo thành từ sự tổng hợp, sự

hỗn dung nhiều nền văn hóa và tiếp biến những thành tố văn hóa ấy thành

những thành tố mang đặc trưng riêng biệt của mình, phù hợp với quan niệm

của mình. Tính tích hợp cho thấy độ mở, khả năng hỗn dung-tiếp biến của một

nền văn hóa, của một dân tộc.

Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh bằng các di chỉ

khảo cổ, các hiện vật, cùng nhiều tài liệu có giá trị và nhận thấy rằng từ xa xưa

cho đến nay, Nam Bộ là vùng đất ở vào vị trí ngã tư đường, là điểm giao tiếp

của các cư dân và các nền văn hóa, văn minh trong khu vực và trên thế giới.

Là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa, của nhiều dân tộc trong quá trình lịch

sử, theo thời gian, sự tiếp nhận và dung hòa những nền văn hóa khác nhau đã

tạo nên tính chất động-mở của cư dân nơi đây thể hiện dưới nhiều hình thức,

sự vật, hiện tượng, vật thể hoặc phi vật thể. Bóng rỗi và chặp Địa nàng cũng

không nằm ngoài quy luật đó.

Hát bóng rỗi và chặp Địa – Nàng là loại hình diễn xướng tổng hợp gắn với

nghi lễ cúng tế thần linh, kết tinh trong nó nhiều lớp văn hoá, nhiều dòng văn

hoá trên cơ sở chắt lọc cái hay, cái phù hợp với thị hiếu của người địa phương.

Trong hình thức diễn xướng này, ta thấy có yếu tố văn hoá - nghệ thuật hăm

(phần múa), có bóng dáng văn hoá người Hoa (ở nghi thức cúng tế), yếu tố văn

hoá Việt và Khmer (ở nhạc lễ) và trò diễn dân gian vui nhộn của người Nam

Bộ.

3.2.2. Tính linh hoạt

Tính linh hoạt có thể coi như một trong những đặc trưng nổi bật trong

văn hóa của Việt Nam nói chung và của văn hóa Nam Bộ nói riêng. Nó thể

hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày, qua cách thức người dân

ứng xử với môi trường sống quanh mình và thể hiện trong văn hóa tinh thần

như thơ, ca, hò, vè, văn chương, âm nhạc, múa, lễ hội v.v…

Tính linh hoạt trong Bóng rỗi, chặp Địa nàng là một trong những đặc điểm

lý giải cho sức sống của loại hình diễn xướng gắn với tín ngưỡng dân gian, có

quá trình hình thành và phát triển bền vững trong đời sống tâm linh của người

Việt Nam.

Đặc điểm âm nhạc Nam Bộ nói chung, âm nhạc Bóng rỗi nói riêng là tư

duy mở , với quan niệm chân phương-hoa lá . Nghĩa là khi học thì phải học

Page 26: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

22

vững lòng bản, giữ vững tính chất chân phương , nhưng khi diễn tấu thì phải

biết thêm hoa thêm lá . Trên những lòng bản có sẵn, trên cấu trúc đã được

quy định từ trước, người diễn xướng có thể thêm vào nhiều chỗ (chữ nhạc, câu

nhạc hay lời thơ, lời văn) theo ngẫu hứng, thể hiện cảm xúc bất chợt thăng hoa

và tài năng của mình, làm cho bài bản trở nên sinh động hơn, phong phú hơn

và luôn luôn biến đổi. Như vậy, người diễn xướng có thể tạo ra nhiều dị bản

trên cơ sở một lòng bản chung và hiếm khi lập lại một cách nguyên vẹn, chính

xác, không thay đổi ở những lần diễn xướng khác nhau.

3.2.3. Tính trào lộng

Việc sử dụng nhiều tình huống, thủ pháp ngôn ngữ và hình thể gây cười

tạo nên sự hài hước cho chặp diễn đã làm cho chặp Địa nàng trở thành chặp

diễn vui vẻ, mang đầy tính hội hè.

Người Nam Bộ có tính bộc trực, thẳng thắn và ưa hài hước nhẹ nhàng. Họ

thích nói chuyện trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề, không thích vòng vo, không

suy nghĩ quá xa. ách thể hiện này không chỉ gặp ở ngôn ngữ giao tiếp hàng

ngày, mà còn hiện diện thường xuyên trong văn hóa Nam Bộ. ũng như vậy,

tính ưa hài hước không phải chỉ bắt gặp ở kho tàng truyện cười dân gian Nam

Bộ mà nó đã thấm sâu vào tâm hồn và tính cách người dân nơi đây. Nó thể

hiện trong cách đùa giỡn khi giao tiếp hàng ngày, kể cả ở những nơi mà ý

nghĩa của sự tôn nghiêm đáng ra phải được nâng cao như trong các cuộc tế lễ

chẳng hạn. Đó là trường hợp hài hước trong chặp Địa nàng, một trong những

nghi thức diễn xướng cúng Bà.

Ẩn trong cốt chuyện đơn giản, ẩn trong tiếng cười vui, người xem cảm

thấy thấm thía những ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tính cách của Địa vừa bộc lộ cái

chất hài hước, trí tuệ thông minh, lạc quan của người lao động, vừa nhằm nhận

diện thói hư, tật xấu thường tình của người đời.

Trong nghệ thuật sân khấu và trong nghệ thuật dân gian của nhiều dân tộc

trên thế giới, tính chất trào lộng là một tính chất không thể thiếu được. Nó làm

cho con người có cơ hội để giải toả những căng thẳng, những dồn nén, những

ẩn ức trong cuộc sống và làm vơi đi những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh

khốc liệt. Tính chất hài hước, trào lộng có thể chỉ là hình thức tạo ra một tiếng

cười sảng khoái hay cũng có thể tạo ra tiếng cười châm biếm, chua cay. ái

hài hước có thể đến từ những hình thù kỳ dị, những động tác gây cười thô

thiển, hay cũng có thể đến từ nội dung vở diễn, đến trong những lời nói làm

cho con người ta phải bật cười mà suy ngẫm. Nhưng dù như thế nào thì chúng

vẫn mang đến cho con người những phút giây thoải mái.

Vừa có tính chất trang nghiêm của một nghi thức tôn giáo, vừa có tính hài

hước (thậm chí đùa giỡn với cả thánh thần), chặp Địa nàng là một nghi thức

diễn xướng đặc biệt vừa có chức năng lễ vừa mang chức năng hội. Vừa cung

Page 27: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

23

kính, mua vui cho thần thánh vừa làm vui cho người dự hội. Mục đích của

tiếng cười ở đây không chỉ diễn tả sự phóng khoáng, thẳng thắn, bộc trực của

người Nam Bộ mà còn thể hiện quan niệm thần thánh gần gũi với người dân.

hính vì quan niệm thần cũng là người , ở gần bên người dân, nghe những

lời khấn nguyện của người dân nên có thể che chở cho người dân.

TIỂU KẾT

Tìm hiểu đặc trưng văn hóa thể hiện trong nội dung diễn xướng Bóng

rỗi, chặp Địa nàng cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về những quan niệm,

những tính chất đặc trưng của cư dân vùng Nam Bộ.

Đó là sự phản ánh nhận thức về quan niệm âm dương ngũ hành cổ sơ,

về ước vọng phồn thực, ghi nhận về xã hội mà con người đang sinh sống.Đó là

tính tích hợp được tạo thành từ việc hỗn dung, tiếp biến từ nhiều nền văn hóa

cùng hiện diện trên một vùng đất. Tính linh hoạt thể hiện qua âm nhạc, nội

dung ngôn ngữ, lối ứng tác ứng tấu v.v… Tính trào lộng trong tư duy và ngôn

ngữ nghệ thuật v.v…

Những điều này góp phần chứng minh sự phong phú trong kho tàng

văn hóa nghệ thuật của người Nam Bộ. Từ đó làm nổi bật nét văn hóa vùng

miền trong văn hóa vùng Việt Nam nói chung, làm nên sự độc đáo của văn hóa

Nam Bộ trong văn hóa Việt Nam.

KẾT LUẬN

Trong xã hội đương đại, nhiều loại hình nghệ thuật diễn xướng thuộc

tín ngưỡng văn hóa tâm linh của Việt Nam đã bị mai một dần, nhưng sự tồn tại

và phát triển của Bóng rỗi và chặp Địa nàng vẫn cho thấy sức sống mạnh mẽ

của chúng trong văn hóa người Việt ở Nam Bộ. Điều này chứng tỏ rằng, Bóng

rỗi và chặp Địa nàng vẫn tiếp tục có khả năng đáp ứng được nhu cầu văn hóa,

tinh thần, thẩm mỹ của con người hôm nay.

Với những khảo sát, phân tích và nghiên cứu, luận án đã bước đầu tìm

hiểu và xác định nguồn gốc hình thành của Bóng rỗi và chặp Địa nàng. húng

được tạo thành từ trong nền văn hóa dân gian của cư dân Nam Bộ và phục vụ

cho nhu cầu văn hóa tâm linh người Nam Bộ. Chúng tôi cho rằng Bóng rỗi

xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, còn chặp Địa nàng thì xuất hiện

khoảng giữa thế kỷ XIX sau khi Hát Bội đã có chỗ đứng vững chắc trong môi

trường văn hóa miền Nam.

Tuy là loại hình diễn xướng tích hợp nhiều yếu tố có nguồn gốc từ lịch sử,

văn hóa, xã hội… nhưng Bóng rỗi và chặp Địa nàng vẫn thể hiện được tính

chất đặc biệt của vùng đất Nam Bộ. Cùng là những thành tố trong các nghi

thức góp phần tạo nên nghi lễ của lễ hội cúng miếu Bà, chúng vừa mang tính

Page 28: BÓNG RỖI VÀ CHẶ ỊA NÀNG ỠNG TH MẪU CỦA I VIỆT NAM Bvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/TOM-TAT.pdf · đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết

24

thiêng, vừa có tính chất thế tục, vừa đáp ứng tiêu chí về mặt lễ và tiêu chí về

mặt hội .

Không ai phủ nhận vai trò của Bóng rỗi, chặp Địa nàng trong đời sống

tâm linh người Việt Nam Bộ, được diễn giải trong các lễ hội cúng Bà. Tuy

nhiên, vì chưa tìm hiểu thấu đáo về những giá trị văn hóa ẩn chứa trong những

nghi thức diễn xướng này nên một số không ít các cán bộ quản lý trong ngành

chuyên môn và chính quyền địa phương đã đồng nhất các nghi thức diễn

xướng này với các hoạt động mê tín dị đoan. Quan niệm đó dẫn đến hành động

là coi các ông bà Bóng như một giai cấp hành nghề mê tín dị đoan mà không

nghĩ rằng họ chính là những nghệ nhân dân gian, lưu giữ những giá trị văn hóa

đặc trưng của miền Nam. Nhìn nhận lại những giá trị này và đối xử với những

người làm nghề này một cách công bằng hơn chính là nhìn nhận giá trị văn hóa

mà người dân Việt ở Nam Bộ đóng góp vào kho tàng chung của người Việt

trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Lễ hội truyền thống nói chung, lễ thờ Mẫu (hay Vía Bà) nói riêng, là

môi trường gìn giữ và trao truyền văn hóa, hay nói một cách khác, đó là nơi

khơi nguồn, bồi đắp, duy trì và lan tỏa các giá trị văn hóa. iữ gìn nét truyền

thống trong nghi thức của tổ tiên chính là thể hiện lòng tri ân với các bậc tiền

nhân, bồi dưỡng lòng yêu nước, nâng cao sự đoàn kết cộng đồng và góp phần

đào luyện nhân cách của con người. Từ thẳm sâu trong tâm hồn của mỗi người

dân Việt, những tình cảm ấy thực sự có những tác dụng tốt để làm nên cuộc

sống tâm linh vững chắc, là sợi dây nối kết con người với đất nước, cộng đồng,

nối kết giống nòi, tổ tiên từ ngàn xưa đến mãi tận ngàn sau.

Với tất cả những nghiên cứu nêu trên, luận án góp phần khẳng định

rằng Bóng rỗi và chặp Địa nàng là những nghi thức diễn xướng độc đáo, lưu

giữ được nhiều giá trị văn hóa dân gian quý báu của người Nam Bộ nói riêng,

người Việt nói chung. Do đó chúng rất xứng đáng được nhìn nhận một cách

khoa học, xứng đáng được trân trọng gìn giữ và phát huy./.